Nghiên Cứu

Hợp phần 1-9

Hợp phần 5

Môi trường tự nhiên, Sử dụng đất và Động lực Cacbon- DEO, RUB, DGHM, ITT

Mục tiêu chính của hợp phần 5 là đánh giá tổng hợp các yếu tố của môi trường tự nhiên có liên quan đến các dịch vụ sinh thái và động lực cacbon trong đó tính đến sự phân bố theo không gian và động lực thời gian. Đối tượng nghiên cứu chính chỉ là lưu vực VGTB, tuy nhiên, khu vực nghiên cứu này lại có những mỗi liên quan mật thiết đến khu vực và thế giới (vĩ mô) cũng như các lưu vực con và địa phương (vi mô). 

Để nắm được các xu hưỡng hiện tại và các quá trình trong hệ thống quang cảnh và động lực cacbon, cần thiết phải biết được các tác động của con người trong quá khứ. Tác động của con người được đánh giá trong bối cảnh quá khứ, bao gồm phá rừng trong quá khứ và sử dụng đất cũng như các tác động liên quan đến đất, nước, khí hậu và các quá trình thổ nhưỡng. 

Các kết quả được sử dụng cho mục đích đối chiếu và đánh giá các quá trình trong hệ thống quang cảnh ở hiện tại và trong tương lai. Ngòai ra, các kết quả cũng là cần thiết để hiệu chỉnh mô hình cacbon và mô hình thủy văn. 

Cho đến thời điểm hiện nay, đã đạt được các mục tiêu khác nhau như:

  • Tại thời điểm hiện tại, eE+E đang tập trung vào nghiên cứu cấp lưu vực và đồng bằng. Bản đồ dữ liệu quá khứ và dữ liệu viễn thám đã được thu thập và xử lí ban đầu sử dùng phần mềm viễn thám (ERDAS Imagine) và ArcGIS (ESRI). Số liệu thống kê được số hóa, các báo cáo nghiên cứu và các tài liệu khác cũng như các cuộc phỏng vấn và các chuyến dã ngoại được sử dụng để lấp đầy các chỗ trống trong dữ liệu để xác định lịch sử động lực sử dụng đất và nước ở giai đoạn sau. 
  • Hệ thống sông ngòi trong quá khứ được số hóa bằng các bản đồ trong những năm 1920, 1960 và dữ liệu ảnh LANDSAT trong những năm 1970, 1990 và sau năm 2000. Dựa vào những kết quả ban đầu kể trên, có thể nắm bắt được rõ hơn một số vấn đề về thủy lực hiện tại. 
  • Sử dụng đất trong lưu vực Vu Gia Thu Bồn (VGTB) trong năm 2010 được đặc trưng hóa và thiết lập vào bản đồ thông qua sử dụng ảnh vệ tinh, các dữ liệu phụ trợ và dữ liệu thực đo. Bản đồ sử dụng đất với các sản phẩm hình ảnh và các công việc đánh giá trong năm 2011 và 2012 đã được cải thiện đáng kể.
  • Đợt khảo sát thực địa đã được thực hiện vào tháng 6 năm 2011 nhằm ước lượng nguồn carbon mặt đất. Đợt khảo sát này tập trung vào đo lường sinh khối thực vật nhằm đánh giá nguồn carbon trên mặt đất và tính biến động của nó ở các lớp sử dụng đất chính. Đợt khảo sát nhắm đến khu vực rừng ở vùng trung du và miền núi của lưu vực VGTB và bao gồm các tham số đo lường cây trồng và thảm phủ tại các khu vực nghiên cứu đã được xác định trước (các xã Trà Bùi, Sông Thanh và Ma Cooi).
  • Bản đồ đất được thành lập dựa trên bảng phân loại đất của Nga và Việt Nam đã được thiết lập theo hệ thống phân loại của FAO/WRB.
  • Xâm nhập mặn của đất đã được phân tích trong luận văn thạc sỹ ITT bởi Melina Tenbrock vào tháng 5 năm 2011. Các mẫu đất đã được lấy ở 3 điểm nằm giữa Đà Nẵng và Hội An. Nhằm mô tả những ảnh hưởng có thể có của các công trình thủy lợi với nước mặn trong đất, tỷ lệ hấp thụ natri đã được tính toán. Kết quả chỉ ra độ mặn khác nhau tùy theo loại hình sử dụng đất. Đất dung cho trồng lúa chứa lượng lớn nhất tổng các chất rắn hòa tan, trong khi đất sử dụng trồng lạc cho giá trị thấp hơn và đất chưa sử dụng cho giá trị thấp nhất. 
  • Đợt khảo sát khác vào tháng 4 và tháng 5 năm 2011 thu thập các thông tin về hệ sinh thái, các kiểu phân bố của các loài chỉ thị (chủ yếu tập trung vào các loài cây). Dữ liệu phân bố tương ứng với địa hình của khu vực nghiên cứu được thu thập thông qua phương pháp đánh giá nhanh. 
  • Đặc tính của hệ thống thủy văn và các cơ sở hạ tầng nước: Trong đợt khảo sát vào tháng 2 năm 2011, 26 mẫu nước đã được lấy và phân tích đánh giá chất lượng nước phân bố theo khu vực. Thêm vào đó, WMUs đã được xây dựng cho toàn bộ lưu vực. 
  • Mô hình số độ cao khớp nối DEM đã được thành lập và sử dụng để tạo mô hình động lực thủy học và xói mòn. Tuy nhiên việc xây dựng mô hình vẫn còn ở chặng đường phía trước của dự án, do đó các thông số cho đất và sử dụng đất là rất sơ bộ và vẫn còn đang phát triển. 
  • Mô hình số độ cao khớp nối DEM đã được thành lập và sử dụng để tạo mô hình động lực thủy học và xói mòn. Tuy nhiên việc xây dựng mô hình vẫn còn ở chặng đường phía trước của dự án, do đó các thông số cho đất và sử dụng đất là rất sơ bộ và vẫn còn đang phát triển. 
  • Việc phân tích tổn thương của sử dụng đất đối với lũ lụt, xâm nhập mặn và hạn hán trong các chuyến thực địa ở vùng đất thấp, trung du và miền núi và các dữ liệu thống kê đã được phân tích. Tại trạm bơm Tứ Câu, một trong những trạm bơm chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của xâm nhập mặn, cùng với Công ty Quản lí thủy lợi Quảng Nam, một trạm quan trắc đã được lắp đặt bởi eE+E. Với mục đích điều tra dữ liệu chi tiết về xâm nhập mặn và tương tác giữa xâm nhập mặn và thủy lợi. Tập trung vào việc phân tích các tổn thương trong nông nghiệp do xâm nhập mặn, một mạng lưới sông sơ bộ và ranh giới cho mô hình MIKE11 cho mùa khô đã được xác định.

Thông tin thêm

Nhấp vào đây để phóng to hình "Khái niệm nghiên cứu":
(Độ rộng 1024 pixel)

KHÁI NIỆM NGHIÊN CỨU (phóng lớn)

Các hợp phần nghiên cứu

Nhấp vào biểu tượng các hợp phần riêng lẻ bên dưới để tìm hiểu thêm: